75 năm vẻ vang của Quốc hội Việt Nam - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất
04/01/2021 08:08
75 năm xây dựng và trưởng thành cũng đồng thời là 14 nhiệm kỳ hoạt động của Quốc hội. Được xây dựng theo tư tưởng quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ Quốc hội khóa I cho đến Quốc hội khóa XIV, dù ở vào thời điểm, hoàn cảnh lịch sử nào, Quốc hội Việt Nam cũng có những đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng chung của đất nước.
XÚC TIẾN THỰC HIỆN TỔNG TUYỂN CỬ BẦU QUỐC HỘI KHÓA I THEO NGUYÊN TẮC PHỔ THÔNG ĐẦU PHIẾU
Ngay sau khi nước nhà giành được độc lập, một trong những công việc trọng yếu nhất theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là phải củng cố, tăng cường chính quyền cách mạng của dân, do dân, vì dân; là “xúc tiến đi đến Quốc hội để quy định Hiến pháp, bầu Chính phủ chính thức”[1]. Vì thế, ngày 3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ: “Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc TỔNG TUYỂN CỬ với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái mười tám tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống,v.v..”[2].
Ngày 8/9/1945, thay mặt Chủ tịch Chính phủ lâm thời, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp đã ký Sắc lệnh số14/SL quy định thời hạn hai tháng kể từ ngày ký sắc lệnh sẽ mở cuộc Tổng tuyển cử và một Uỷ ban khởi thảo Hiến pháp gồm 7 người sẽ được thành lập. Sắc lệnh ghi rõ: “Xét rằng trong tình thế hiện giờ sự triệu tập Quốc dân Đại hội không những có thể thực hiện được mà lại rất cần thiết để cho toàn dân tham gia vào công cuộc củng cố nền độc lập và chống nạn ngoại xâm”[3]. Tiếp đó, Chính phủ lâm thời đã ban hành các Sắc lệnh số 39/SL ngày 26/9/1945 về thành lập Ủy ban dự thảo thể lệ cuộc Tổng tuyển cử; Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/10/1945 quy định “Thể lệ cuộc Tổng tuyển cử phải thực hiện theo lối phổ thông đầu phiếu, bầu cử trực tiếp và bỏ phiếu kín"; Sắc lệnh số 71/SL ngày 2/12/1945 và Sắc lệnh số 72/SL để bổ khuyết Sắc lệnh số 51/SL về thủ tục ứng cử và bổ sung số đại biểu bầu cho một số tỉnh… Việc ban hành những Sắc lệnh này của Chính phủ lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu có một ý nghĩa vô cùng to lớn; không chỉ tạo cơ sở pháp lý và nền tảng cho sự thành công của cuộc Tổng tuyển cử mà còn làm cho cuộc bầu cử Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam độc lập trở thành ngày hội của toàn dân.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hiện bầu cử Quốc hội - cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu chính là mở rộng - là thực hiện quyền dân chủ cho các tầng lớp nhân dân để mỗi người đều có thể tham gia làm tròn nghĩa vụ, quyền công dân của mình. Điều đó “sẽ chứng tỏ cho toàn thế giới biết rằng người Việt Nam không những chỉ có khả năng tự trị, mà còn biết tự tổ chức một cách dân chủ nữa”[4]. Đặc biệt, theo Sắc lệnh 51/SL, "dân trong mỗi tỉnh bầu thẳng đại biểu tỉnh mình dự vào Quốc dân Đại hội". Số đại biểu của một tỉnh hay thành phố thì sẽ căn cứ vào dân số tỉnh (hay thành phố) ấy mà ấn định, trừ một vài thành phố đặc biệt quan trọng thì "số đại biểu có tăng lên chút ít".
Xuất phát từ điều kiện cụ thể của Việt Nam khi đó, số đại biểu của một tỉnh hay thành phố mà căn cứ vào số dân cư là hợp lý nhất, cho nên, chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sửa nội dung trong dự thảo "căn cứ vào trình độ văn hoá" và "căn cứ vào phong trào cách mạng" để bầu số đại biểu của một tỉnh hay thành phố thành "căn cứ vào dân số tỉnh hay thành phố ấy mà ấn định". Quyết định của Người không chỉ thể hiện tầm nhìn xa, sự sáng tạo và cách mạng trong từng quyết định mà còn đồng thời cho thấy rằng: Người luôn tin tưởng vào sự lựa chọn của nhân dân và nỗ lực, quyết tâm để nhân dân được tự do lựa chọn những người thay mặt mình tham gia vào công việc quốc gia.
Quá trình chuẩn bị cho cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa I gặp muôn vàn khó khăn, thách thức, nhất là những hành động xâm lược của thực dân Pháp ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ và sự chống phá điên cuồng của Việt Cách (Việt Nam cách mạng đồng minh hội) và Việt Quốc (Việt Nam quốc dân đảng). Trong bối cảnh đó, Người và bộ chỉ huy tối cao của dân tộc, một mặt, kiên quyết đấu tranh vạch trần và chống lại những hành động phá hoại của kẻ thù, mặt khác thực hiện sách lược nhân nhượng, hoà giải để “tỏ rõ cái tư cách xứng đáng của những người công dân nước Việt Nam và ý chí đoàn kết không chia rẽ" của toàn thể quốc dân nhằm tiến hành cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Cụ thể: 1) Ngày 24/12/1945, đại biểu của Việt Minh, Việt Quốc, Việt Cách đã gặp nhau và ký bản Biện pháp đoàn kết gồm 14 điều chính và 4 điều phụ. Tinh thần của bản Biện phápvới nội dung: Độc lập trên hết, kêu gọi đoàn kết, đình chỉ đăng báo công kích lẫn nhau bằng lời nói và hành động, nhất trí mở rộng Chính phủ lâm thời có đại diện của Việt Quốc và Việt Cách, thừa nhận 70 ghế trong Quốc hội cho Việt Quốc, Việt Cách không thông qua bầu cử đã được các bên thông qua. 2) Ngày 1/1/1946, Chính phủ lâm thời đã cải tổ, mở rộng thành phần Chính phủ liên hiệp lâm thời. Để Nguyễn Hải Thần đại diện Việt Cách giữ chức Phó Chủ tịch, và Trương Đình Tri, đại diện Việt Quốc giữ chức Bộ trưởng Bộ Y tế, Chính phủ liên hiệp lâm thời đã ra Tuyên bố và nội dung đối nội là "làm sao cho cuộc toàn dân tuyển cử được thành công mỹ mãn và chuẩn bị sẵn sàng việc khai Quốc hội"[5].
Trực tiếp lãnh đạo cuộc Tổng tuyển cử, ngày 31/12/1945, Người viết bài "Ý nghĩa Tổng tuyển cử" đăng báo Cứu quốc; trong đó khẳng định: "Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức để gánh vác công việc nước nhà… Do Tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội. Quốc hội sẽ cử ra Chính phủ. Chính phủ đó thật là Chính phủ của toàn dân"[6]. Khác với các nhà nước tư sản, Quốc hội là một thiết chế được khẳng định trong Hiến pháp từ rất sớm nhưng không phải lúc nào giai cấp tư sản cũng tạo điều kiện về mặt pháp lý để nhân dân lao động được tham gia vào các cuộc bầu cử, ở Việt Nam - Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: "Hễ là người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử; hễ là công dân thì đều có quyền đi bầu cử. Không chia gái trai, giàu nghèo, tôn giáo, nòi giống, giai cấp, đảng phái. Hễ là công dân Việt Nam thì đều có hai quyền đó"[7].
Tiếp đó, ngày 3/1/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì phiên họp của Chính phủ, kiểm tra lần cuối những công việc của cuộc Tổng tuyển cử. Ngày 5/1/1946, Người ra Lời kêu gọi quốc dân đi bỏ phiếu, thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ người công dân của nước Việt Nam độc lập và nhấn mạnh: "Ngày mai là một ngày đầu tiên trong lịch sử Việt Nam mà nhân dân ta bắt đầu hưởng dụng quyền dân chủ của mình... Ngày mai, dân ta sẽ được tự do lựa chọn và bầu ra những người xứng đáng thay mặt cho mình, và gánh vác việc nước… Ngày mai, mỗi người đều nên vui vẻ hưởng quyền lợi của một người dân độc lập, tự do"[8]; đồng thời, khẳng định "về mặt chính trị, thì nhân dân dùng lá phiếu mà chống với quân địch. Một lá phiếu cũng có sức lực như một viên đạn"[9]. Không dừng ở đó, Người còn nêu rõ trách nhiệm của cử tri và hướng dẫn đúng đắn để cử tri sử dụng quyền bầu cử của mình khi nhấn mạnh rằng: "Những ai muốn làm quan cách mạng thì không nên bầu. Ngày mai không ai ép, không ai mua, toàn dân sẽ thực hiện quyền dân chủ ấy"[10].
Ngày 6/1/1946, với ý chí sắt đá của một dân tộc quyết tâm bảo vệ nền độc lập, tự do vừa giành được; với niềm tin tưởng chắc chắn rằng "đi bỏ phiếu là đặt một viên gạch xây đắp nền cộng hoà dân chủ", nhân dân ta ở khắp mọi miền đất nước, dù nhiều người phải hy sinh cả tính mạng của mình đã "tiến đến thùng phiếu" để thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ của người dân một nước độc lập, tự do.
Chủ tịch Hồ Chí Minh ứng cử tại Hà Nội. Là công dân số 1 của nước Việt Nam độc lập, Người không chỉ động viên, kêu gọi mọi người tham gia tổng tuyển cử mà còn nghiêm túc thực hiện nghĩa vụ công dân của mình. Khi 118 vị chủ tịch UBND và tất cả các giới đại biểu làng xã tại Hà Nội, kiến nghị: "Cụ Hồ Chí Minh miễn phải ứng cử" trong cuộc tổng tuyển cử sắp tới và "suy tôn Cụ làm Chủ tịch vĩnh viễn của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà", Người đã đáp lại tình cảm và nguyện vọng đó; đã cảm tạ đồng bào và nói: "Tôi là một công dân của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà nên không thể vượt qua thể lệ tổng tuyển cử đã định". Người bầu cử tại địa điểm số 10 Hàng Vôi (nay là phố Lý Thái Tổ)...
Tại Hà Nội, hàng chục vạn cử tri đã đi bỏ phiếu. Trong cuộc bầu cử ở Hà Nội, đã có 172.765 trong tổng số 187.880, tức 91,95% cử tri của cả 74 khu phố nội thành và 118 làng ngoại thành đã đi bỏ phiếu. Sáu trong tổng số 74 ứng cử viên đã trúng cử đại biểu Quốc hội. Người trúng cử thấp phiếu nhất là 52,5%, người đạt phiếu cao nhất là Chủ tịch Hồ Chí Minh được 169.222 phiếu, tức 98,4%"[11].
Ở các địa phương khác, Tổng tuyển cử cũng diễn ra sôi nổi. Mặc dù một số địa phương phải đối phó với âm mưu phá hoại tinh vi và trắng trợn của kẻ thù, nhưng ở miền Bắc, nói chung tổng tuyển cử diễn ra an toàn. Hải Phòng có tới 96% cử tri đi bỏ phiếu. Ở miền Nam, nhất là Nam Bộ, dưới bom đạn ác liệt của kẻ thù, không có nơi bỏ phiếu cố định, thậm chí ngay tại bệnh viện hoặc trên trận tuyến... bất chấp địch đánh phá, tổng tuyển cử vẫn thu được kết quả tốt đẹp. Nhiều tỉnh còn đạt số cử tri đi bỏ phiếu rất cao như Sa Đéc đạt 93,54%, Bạc Liêu đạt 90,97%. Tại Tây Nguyên, thực dân Pháp dùng máy bay ném bom lửa xuống ba làng để khủng bố dân chúng, song tổng tuyển cử vẫn được tiến hành...
Trong cuộc bầu cử Quốc hội khóa I, tại 71 tỉnh thành trong cả nước, đã có "89% tổng số cử tri đi bỏ phiếu, phổ biến là 80%, nhiều nơi đạt 95%" trừ một số nơi phải bầu bổ sung, còn tuyệt đại đa số các địa phương chỉ bầu một lần. Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của nước Việt Nam độc lập đã thắng lợi. Toàn dân đã thực sự được "hưởng một phần độc lập, tự do" bằng lá phiếu cử tri của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng (đã rút vào hoạt động bí mật) đã tổ chức thành công cuộc Tổng tuyển cử theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu, bí mật, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, nhân dân ta đã thực hiện quyền làm chủ đất nước và xã hội thông qua lá phiếu để bầu những đại biểu thay mặt mình gánh vác công việc nước nhà.
Với những điều khoản chi tiết, rõ ràng, cụ thể trong các văn bản pháp luật; với việc chuẩn bị chu đáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và bộ chỉ huy tối cao, Tổng tuyển cử ngày 6/1/1946 thực sự là một cuộc Tổng tuyển cử tự do, bình đẳng và đoàn kết. Vừa kiên quyết, vừa khôn khéo, mềm dẻo trong vấn đề nội trị và ngoại giao, đồng thời thực hiện sự nhân nhượng có nguyên tắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh và những người cộng sản Việt Nam đã làm cho cuộc Tổng tuyển cử 6/1/1946 thực sự là ngày hội của nước Việt Nam độc lập, tự do, dân chủ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trực tiếp chỉ đạo thắng lợi cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khoá I, thể hiện tầm nhìn chiến lược của một nhà lập hiến. Thành công của cuộc bầu cử ngày 6/1/1946 không chỉ khẳng định về mặt pháp lý quyền làm chủ của nhân dân Việt Nam: Từ thân phận nô lệ đứng lên giành độc lập, tự tổ chức ra Nhà nước của mình/Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, bầu ra Quốc hội, thành lập Chính phủ chính thức và ban hành bản Hiến pháp 1946 mà còn mở ra một trang sử mới cho đất nước ta khi có một hệ thống chính quyền thống nhất, chính danh về mặt pháp lý, đại diện cho nhân dân Việt Nam về đối nội và đối ngoại.
QUỐC HỘI NGÀY CÀNG PHÁT HUY VAI TRÒ LÀ CƠ QUAN QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC CAO NHẤT
Quốc hội khoá I - Quốc hội ra đời từ lòng dân, bao gồm đầy đủ các tầng lớp, các giới, các đảng phái chính trị ở cả 3 miền Bắc - Trung - Nam, gồm 333 đại biểu (trong đó, Bắc Bộ có 152 đại biểu, Trung Bộ có 108 đại biểu, Nam Bộ có 73 đại biểu). Cùng với 70 đại biểu không thông qua bầu cử, Quốc hội khoá I có 403 đại biểu, với đầy đủ các thành phần công nhân, nông dân, trí thức, các nhà tư sản, người buôn bán… là hình ảnh tượng trưng cho khối toàn dân đoàn kết, minh chứng hùng hồn cho việc thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền lực của nhân dân.
Theo quy định, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - được gọi là Nghị viện nhân dân có nhiệm kỳ là 3 năm (Điều 24, Hiến pháp 1946) và Quốc hội có nhiệm kỳ 4 năm (Điều 45, Hiến pháp 1959). Tuy nhiên do điều kiện chiến tranh kéo dài, vì vậy cuộc bầu cử Quốc hội khoá II (ngày 8/5/1960), khoá III (ngày 26/4/1964), khoá IV (ngày 11/4/1971) và khoá V (ngày 6/4/1975) chỉ được tiến hành ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Thực tế là, dù chỉ bầu cử ở miền Bắc, song Quốc hội khoá II, III, IV, V vẫn là cơ quan đại diện quyền lực của nhân dân cả nước, bởi số đại biểu miền Nam vẫn tiếp tục làm nhiệm vụ trong Quốc hội. Quyết định lưu nhiệm các đại biểu Quốc hội miền Nam do nhân dân cả nước bầu ra trong Tổng tuyển cử ngày 6/1/1946 thực sự là biểu tượng của sự đoàn kết, nhất trí toàn dân tộc, kiên trì vì mục tiêu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Từ cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khoá I cho đến ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng (1946 -1975), đất nước ta đã trải qua nhiều biến cố và Quốc hội cũng đã nhiều lần được bầu lại. Nhiệm vụ chính trị của Quốc hội ở mỗi thời kỳ tuy có khác nhau, song đó vẫn thực sự là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa như tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Có thể nói, dù ở vào giai đoạn lịch sử nào của đất nước, Quốc hội cũng đều thể hiện rõ chức năng “cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất”, “cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp”,v.v..
Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959 đã trao cho Quốc hội những quyền hạn và nhiệm vụ rộng lớn, thể hiện tập trung quyền của nhân dân lao động. Những quyền đó được ghi thành văn, với các điều kiện bảo đảm thực hành như mọi nền dân chủ đạt trình độ cao trên thế giới.
Sau thắng lợi của cuộc Tổng tiến công mùa xuân năm 1975, một đất nước Việt Nam hoà bình, thống nhất cùng đi lên chủ nghĩa xã hội đã đặt ra cho Quốc hội - cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân những trọng trách mới. Nhiệm vụ mới đòi hỏi Quốc hội phải có một cơ cấu phản ánh được tính chất toàn dân tộc. Hội nghị Hiệp thương chính trị thống nhất Tổ quốc, ngày 21/11/1975 đã nhất trí nhận định: cách mạng Việt Nam đã chuyển sang một giai đoạn mới, giai đoạn cả nước cùng làm cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, Hội nghị nhất trí khẳng định việc cần thiết phải tổ chức Tổng tuyển cử trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam để bầu Quốc hội chung cho cả nước, vì: Thực hiện thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước là khâu then chốt, nó tạo điều kiện để thống nhất nước nhà về các mặt khác một cách thuận lợi. Hội nghị không chỉ đạt được sự nhất trí cao về chủ trương, phương hướng mà còn đề ra những biện pháp cụ thể để thực hiện ý nguyện của toàn dân - đó là tiến hành Tổng tuyển cử bầu Quốc hội cho một nước Việt Nam thống nhất. Theo quyết định, “cuộc Tổng tuyển cử sẽ tiến hành trong nửa đầu năm 1976, theo đúng nguyên tắc dân chủ: phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Số đại biểu Quốc hội sẽ tính theo số dân. Khoảng 100.00 dân sẽ được bầu 1 đại biểu”[12].
Từ tháng 2/1976, công tác tuyên truyền, vận động nhân dân tiến tới Tổng tuyển cử được triển khai trong phạm vi cả nước. Ngày 25/4/1976, trong niềm vui chung “Bắc Nam sum họp một nhà, non sông liền một dải”, nhân dân cả nước đã tham gia cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khoá VI của nước Việt Nam thống nhất. Đây là lần thứ hai cuộc Tổng tuyển cử đước tiến hành trong cả nước, sau 30 năm kể từ cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên (6/1/1946). Hơn 23 triệu cử tri (98,8% tổng số cử tri) đã đi bầu cử và bầu được 492 đại biểu vào Quốc hội khoá VI của nước Việt Nam hoà bình, thống nhất. Với 492 đại biểu, trong đó (có 80 người là công nhân, 100 người là nông dân, 6 người là tiểu thủ công nghiệp, 54 người là chiến sĩ quân đội nhân dân, 141 người là cán bộ chính trị, 98 người là trí thức và nhân sĩ, 13 người là các thành phần tôn giáo), Quốc hội khoá VI là một thắng lợi có ý nghĩa quyết định trên con đường tiến tới hoàn thành thống nhất về mặt nhà nước.
Tổng tuyển cử ngày 25/4/1976 là một sự kiện trọng đại trong đời sống chính trị của nước ta. Lịch sử dân tộc ta đã chuyển sang một bước ngoặt vĩ đại. Trong kỷ nguyên mới của đất nước, Quốc hội khoá VI tiếp tục hoàn thành thống nhất đất nước trên tất cả các lĩnh vực chính trị, tư tuởng, kinh tế, văn hoá, xã hội gắn với việc thực hiện những nhiệm vụ của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Thực hiện khát vọng của Người, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, nhân dân cả nước quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam đàng hoàng hơn, to đẹp hơn. Tiếp tục một cách xứng đáng những thành tựu, những bài học kinh nghiệm của Quốc hội các khóa I, II, III, IV, V, Quốc hội khoá VI - Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất đã trở thành nhân tố quan trọng trong hệ thống chính trị của đất nước để tổ chức nhân dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, đặc biệt là từ sau Đại hội Đảng lần thứ VII (6/1991), khi Đảng tuyên bố xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa theo tư tưởng Hồ Chí Minh thì vị trí, vai trò của Quốc hội ngày càng tăng lên mạnh mẽ. Điều này không chỉ dừng ở việc chuẩn bị và tiến hành bầu cử Quốc hội ở các khoá (từ khóa VII đến khóa XIV và chuẩn bị bầu cử Quốc hội khóa XV vào ngày 23/5/2021 sắp tới) mà còn thể hiện ở việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội trên nhiều mặt. Cùng với Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 và gần nhất là Hiến pháp 2013, việc ban hành nhiều văn bản pháp luật thiết thực, phù hợp với nhu cầu của thực tiễn, đổi mới quy trình xây dựng pháp luật, nâng cao chất lượng các luật; đổi mới các hoạt động giám sát để tăng cường hiệu lực, hiệu quả; chủ động xem xét và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước; đồng thời, tăng cường các hoạt động mở rộng quan hệ đối ngoại của Quốc hội với Quốc hội các nước, các tổ chức quốc tế vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển,v.v.. đã làm cho Quốc hội ngày càng thể hiện rõ vai trò của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.
Nhìn lại quá trình ra đời và phát triển của Quốc hội, có thể thấy rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đặc biệt quan tâm đến cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khoá I mà trong các kỳ bầu cử tiếp theo, Người cũng chú trọng việc bầu cử để thành lập cơ quan đại diện quyền lực của nhân dân. Thực hiện theo tư tưởng của Người, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, Quốc hội Việt Nam cũng hoạt động ngày càng hiệu quả để làm tròn một cách vẻ vang nhiệm vụ là những người đại biểu của nhân dân, thực sự hết lòng vì dân, vì nước; được nhân dân, cử tri cả nước tín nhiệm và đồng tình ủng hộ.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quốc hội Việt Nam đã không ngừng mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy dân chủ, thực hiện tốt chức năng là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại diện cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Truyền thống đoàn kết, vì dân, vì nước của Quốc hội khoá I do Chủ tịch Hồ Chí Minh hết lòng chăm lo xây dựng và phát triển đã đưa kháng chiến đến thắng lợi thì nhất định vẫn sẽ là một trong những nhân tố quan trọng để Quốc hội Việt Nam khóa XIV và các khóa tiếp theo đồng hành cùng dân tộc, thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa phát triển phồn vinh và hạnh phúc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là ứng cử viên và cũng là cử tri đi bầu cử ba nhiệm kỳ Quốc hội: Quốc hội khóa I (1946 - 1960), Quốc hội khóa II (1960 - 1964), Quốc hội khóa III (1964 - 1971). Ở cương vị nào, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng thể hiện sâu sắc tinh thần trách nhiệm và nghĩa vụ của một công dân mẫu mực đối với đất nước. |
-----------
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr. 27
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội , 2011, t.4, tr.7
[3] Lê Mậu Hãn, Nguyễn Văn Thư: Lịch sử Quốc hội Việt Nam 1946 -1960, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.31
[4] Báo La république, số 4, ngày 28/10/1945
[5] Báo Cứu quốc, ngày 10/11/1945
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.4, tr.153
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.4, tr.153
[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.4, tr.166-167
[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.4, tr.166
[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.4, tr.168
[11] Lê Mậu Hãn, Nguyễn Văn Thư: Lịch sử Quốc hội Việt Nam 1946 -1960, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.48-49
[12] Lê Mậu Hãn: Lịch sử Quốc hội Việt Nam 1960 - 1976, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.305