Ngành thép trước các vụ kiện phòng vệ thương mại: Không chủ động, sẽ thua thiệt

Ngành thép ngày càng đối diện nhiều hơn các nguy cơ về kiện phòng vệ thương mại (PVTM), song đây cũng là cơ hội để tái cơ cấu, loại bỏ những doanh nghiệp (DN), mặt hàng không hiệu quả; giúp DN định vị lại vị trí trên thị trường. Đây là chia sẻ của ông Nghiêm Xuân Đa - Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA) - với phóng viên Báo Công Thương.

09/11/2020 11:33

Ngành thép ngày càng đối diện nhiều hơn các nguy cơ về kiện phòng vệ thương mại (PVTM), song đây cũng là cơ hội để tái cơ cấu, loại bỏ những doanh nghiệp (DN), mặt hàng không hiệu quả; giúp DN định vị lại vị trí trên thị trường. Đây là chia sẻ của ông Nghiêm Xuân Đa - Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA) - với phóng viên Báo Công Thương.

Thép là mặt hàng đối diện nhiều vụ kiện, biện pháp PVTM gắt gao ở nhiều thị trường, trong đó có EU. Theo ông, đâu là nguyên nhân dẫn tới thực trạng này?

Hiện nay, Việt Nam đã xuất khẩu (XK) thép sang hơn 30 quốc gia trong khu vực và thế giới, như Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, ASEAN. Trong đó, ASEAN là thị trường XK chính của thép Việt Nam, chiếm hơn 50% số lượng, giá trị XK. Có thể thấy, sự phát triển bứt phá của thép Việt Nam đồng nghĩa với việc kéo theo tình trạng DN cũng như mặt hàng thép, đối diện và nằm trong tầm ngắm của các thị trường XK. Theo thống kê của VSA, tính từ năm 2004 đến tháng 8/2020, đã có 62 vụ việc, trong đó, chống bán phá giá (CBPG) 34 vụ việc, chống trợ cấp 3 vụ việc; CBPG và trợ cấp 6 vụ việc; chống tự vệ thương mại, lẩn trốn biện pháp PVTM 13 vụ việc...

Nguyên nhân, trước hết, là do tình trạng dư thừa công suất toàn cầu. 10 năm qua công suất thép luôn lớn hơn sản lượng thực tế, trên 500 triệu tấn/năm. Thứ hai, do các nước thị trường mới nổi nếu như trước đây thiếu hụt mặt hàng thép, nhưng nay đã nâng cao năng lực sản xuất và tự cung ứng cho nhu cầu trong nước, thậm chí dư thừa để XK. Có thể lấy ví dụ như Việt Nam, cách đây 10 năm, là nước nhập khẩu (NK), nhưng 5 năm gần đây, đã trở thành nước XK thép lớn trong khu vực. Theo đó, sự gia tăng về bảo hộ của nhiều quốc gia khiến tình hình thương mại toàn cầu trở nên khó khăn hơn và tạo ra một xu thế buộc chúng ta phải đối diện ngày càng nhiều trước các biện pháp PVTM. Thứ ba, do yếu tố chủ quan của DN. Đến nay, nền kinh tế Việt Nam đã bước vào thị trường quốc tế, nhưng không ít DN chưa có sự chuẩn bị bài bản về chiến lược XK. Mặt khác, có những DN bất chấp, nhìn lợi ích trước mắt để gian lận xuất xứ; chuỗi giá trị của DN còn hạn hẹp, nên xảy ra tình trạng chưa đáp ứng được xuất xứ hàng hóa.

Vậy, “sức đề kháng” của DN ngành thép trước các vụ việc PVTM có tốt không, thưa ông?

Đối diện trước các vụ việc về PVTM cho thấy, DN rất lúng túng, thiếu chủ động trong việc chuẩn bị tham gia các vụ kiện. Ở đây, khó khăn là nhận thức, chỉ có DN bị kiện trực tiếp mới quan tâm. Ngoài ra, nguồn lực để theo đuổi các quy trình điều tra vụ việc của DN rất hạn chế, như tài chính, mức độ hiểu biết pháp luật… Tuy nhiên, nhìn góc độ tích cực, chúng ta cũng phải thừa nhận, trải qua các vụ việc về PVTM, thép là ngành đi đầu trong bảo vệ khá hiệu quả lợi ích chính đáng của DN sản xuất trong nước.

Thời gian qua, VSA đã tăng cường, tích cực hợp tác với Cục PVTM, Bộ Công Thương, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), hỗ trợ DN ứng phó với các vụ kiện về PVTM. Đặc biệt, nhờ sự hỗ trợ của Bộ Công Thương, DN, thành viên của VSA đã có sự chuẩn bị, chủ động hơn trước các vụ kiện về PVTM. Dù vậy, trong bối cảnh hội nhập và Việt Nam thực hiện các cam kết của Hiệp định Thương mại tự do (FTA), áp lực cạnh tranh ngày càng gia tăng, việc nâng cao nhận thức của DN về PVTM rất quan trọng.

VSA rất mong nhận được hỗ trợ nhiều hơn từ Bộ Công Thương, nhất là trong việc nâng cao hiệu quả, hiệu lực của Hệ thống cảnh báo sớm về PVTM cho DN thép. Mặt khác, Chính phủ cũng như cơ quan chức năng, trong đó có Bộ Công Thương, cần tăng cường các biện pháp bảo vệ, giám sát thị trường để kiểm soát nguồn gốc xuất xứ, tránh những phát sinh ngoài ý muốn, lợi dụng của DN nước ngoài nhằm lẩn tránh các biện pháp PVTM.

Để bước ra “sân chơi” quốc tế, tự tin trước các biện pháp PVTM, theo ông điểm mấu chốt các DN ngành thép cần tập trung là gì?

Thực tế, các biện pháp PVTM ngày càng quan trọng trong việc bảo vệ ngành sản xuất trong nước của các quốc gia. Do đó, chúng ta phải chuẩn bị tâm thế sẵn sàng đối mặt với các vụ việc về PVTM; xây dựng chiến lược kinh doanh của từng DN, từng ngành, phải tính đến nguy cơ rủi ro, các yếu tố phát sinh từ vụ việc PVTM.

Một trong những yếu tố quan trọng để tăng năng lực cạnh tranh, bước ra “sân chơi” quốc tế với tâm thế tự tin, chính là đầu tư công nghệ mới, hiện đại. Nhiều DN ngành thép đã có sự chuyển biến rất lớn trong việc đầu tư, áp dụng công nghệ bài bản, nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm, không ngừng chiếm lĩnh thị trường nội địa và vươn ra thị trường quốc tế. Ngoài ra, DN đã chủ động, mạnh dạn đa dạng hóa thị trường XK, nhằm hạn chế những rủi ro trong thương mại quốc tế. Tuy nhiên, để tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, Chính phủ, các cơ quan chức năng cần tăng cường hỗ trợ DN XK, cũng như đưa ra những định hướng phát triển thị trường, giúp DN có chiến lược đầu tư phù hợp, hiệu quả.

Xin cảm ơn ông!