Giá thép xây dựng nội địa phục hồi trong tháng cuối năm 2022
Diễn biến tăng giá nhanh của nguyên liệu đầu vào đã gây sức ép lên giá thép xây dựng trong tháng 12. Các nhà sản xuất thép điều chỉnh tăng giá với biên độ tăng thận trọng.
19/12/2022 19:26
Giá thép xây dựng nội địa sau hơn một tháng đi ngang, sang tháng 12/2022 trước diễn biến tăng giá liên tục của phôi thép và thép phế, các nhà sản xuất đã điều chỉnh tăng giá với mức tăng phổ biến từ 150.000 đồng/tấn – 300.000 đồng/tấn tùy theo thương hiệu và khu vực thị trường. Đây là bước tăng được đánh giá là thận trọng trong bối cảnh nhu cầu tiêu thụ thép của nền kinh tế chưa có dấu hiệu phục hồi rõ rệt.
Với mức điều chỉnh này, giá bán bình quân thép xây dựng nội địa tính từ đầu tháng 12 cho tới nay tăng từ 0,4 - 1% so với tháng 11/2022, trong khi đó tốc độ tăng giá của mặt hàng này trên thị trường thế giới đang là 2,9 - 4,7% tùy theo khu vực. Còn tại thị trường kỳ hạn Trung Quốc, giá thép cây kỳ hạn 3 tháng trong tháng 12 đã tăng bình quân 6,4% so với tháng 11/2022, thị trường thép tại quốc gia này đã phản ứng tích cực sau khi Chính phủ Trung Quốc đưa ra hàng loạt chính sách để hỗ trợ nền kinh tế đang gặp khó khăn, như cắt giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc và điều chỉnh các biện pháp phòng chống Covid-19, nới lỏng các hạn chế tài chính để vực dậy lĩnh vực bất động sản; cơ quan quản lý chứng khoán Trung Quốc cũng dỡ bỏ lệnh cấm tái cấp vốn vốn chủ sở hữu đối với các công ty niêm yết, trong biện pháp hỗ trợ mới nhất cho lĩnh vực bất động sản đang gặp khó khăn về tiền mặt.
Bảng giá bình quân thép xây dựng tại các thị trường
Nguồn: Giá thế giới tổng hợp từ Platts
Như vậy, tốc độ tăng giá thép xây dựng tại Việt Nam đang chậm hơn so với thế giới và cũng tăng chậm hơn so với cả tốc độ tăng giá của các nguyên liệu chính. Tính tới ngày 19/12, giá bình quân phôi thép nội địa tháng 12 tăng khoảng 11% so với tháng 11/2022, còn giá thép phế thu mua nội địa tăng bình quân 5 – 6%.
Giá phôi thép nội địa duy trì diễn biến tăng giá liên tục từ tuần cuối tháng 11/2022 cho tới giữa tháng 12/2022 sau đó chững lại và đi ngang. Giá phôi thép hiện nay cao hơn mức giá hồi đầu tháng 12 từ 700.000 – 750.000 đồng/tấn. Ghi nhận trên thị trường ngày 19/12, giá chào phôi thép trung tần phổ biến từ 13,25 – 13,3 triệu đồng/tấn, đây là giá xuất xưởng, chưa bao gồm VAT và phí vận chuyển.
Tương tự giá thép phế nội địa hiện nay cũng đã tăng phổ biến từ 1 – 1,3 triệu đồng/tấn so với đầu tháng 12/2022. Giá phế liệu loại 1 ở khu vực phía Bắc ghi nhận tại ngày 19/12 phổ biến từ 9,9 – 10,2 triệu đồng/tấn, phía Nam phổ biến từ 8,8 – 9,4 triệu đồng/tấn (giá chưa VAT, đã bao gồm phí vận chuyển). Thị trường thép phế tại hầu hết các khu vực trên thế giới đã duy trì xu hướng tăng giá trong 4 tuần gần đây, trong đó có Việt Nam. Các nhà máy thép tại Việt Nam sang tháng 12 cũng tích cực nhập khẩu phế trở lại trong bối cảnh nguồn cung phế liệu trong nước hạn chế, không đáp ứng đủ nhu cầu.
Nguồn: Platts
Nhìn chung, với diễn biến và xu hướng tăng giá nguyên liệu trên thị trường thép thế giới trong những tuần qua cho thấy nhiều khả năng giá thép xây dựng nội địa trong những tuần tới sẽ tiếp tục phục hồi.
Bên cạnh đó, giá thành sản xuất và giá bán thép thành phẩm cũng chịu tác động từ những yếu tố sau:
• Tác động của việc đồng USD mạnh lên đối với giá nguyên liệu nhập khẩu được nhận định nhiều khả năng sẽ vẫn còn kéo dài đến Quý 3/2023.
• Chính phủ có thể xem xét tăng giá các dịch vụ thiết yếu như điện trong năm 2023. Giá bán lẻ điện sẽ chịu áp lực tăng trong năm 2023 do chi phí sản xuất tăng (tỷ giá hối đoái tăng, giá nguyên vật liệu đầu vào tăng như than, khí ga,...).
• Lãi suất tăng sẽ làm tăng chi phí của các doanh nghiệp sản xuất, thương mại và logistics, từ đó gia tăng áp lực tăng giá đầu ra.
Một trong những động lực quan trọng cho thị trường thép Việt Nam là đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công. Chính phủ Việt Nam đang thúc đẩy đầu tư công để hỗ trợ nền kinh tế. Chính phủ đã công bố dự toán ngân sách năm 2023, trong đó vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước ước đạt 698.867 tỷ đồng, tăng 28,9% so với kế hoạch năm trước. Con số này bao gồm vốn phân bổ cho các dự án thuộc Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội. Để đạt được kế hoạch này, Chính phủ đã nới lỏng mục tiêu lạm phát bình quân năm 2023 tăng lên 4,5% so với cùng kỳ (mục tiêu năm 2022 là 4,0%) và dự báo mức thâm hụt ngân sách cao hơn trong năm 2023 là 4,5%, từ 4% của năm 2022.
Trần Hương