Việt Nam có cần sản xuất thép hay không?

“Chúng ta lựa chọn con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá để phát triển, đây là lựa chọn không mới, hàng chục năm nay chúng ta theo đuổi miệt mài. Và đây là con đường đúng, tất yếu phải phát triển công nghiệp vật liệu nền tảng trong đó có thép”, ông Hồ Nghĩa Dũng, Chủ tịch Hiệp hội Thép cho biết.

20/09/2016 14:12

“Chúng ta lựa chọn con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá để phát triển, đây là lựa chọn không mới, hàng chục năm nay chúng ta theo đuổi miệt mài. Và đây là con đường đúng, tất yếu phải phát triển công nghiệp vật liệu nền tảng trong đó có thép”, ông Hồ Nghĩa Dũng, Chủ tịch Hiệp hội Thép cho biết.

Nếu không làm thép, không có công nghiệp hoá

Tại toạ đàm Thu hút đầu tư và phát triển kinh tế bền vững do Thời báo kinh tế Việt Nam tổ chức sáng 20/9, ông Võ Trí Thành, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (CIEM) đã đặt câu hỏi: “Việt Nam có cần sản xuất thép hay không?”.

Phản hồi về điều này, ông Trương Thanh Hoài, Vụ trưởng Vụ công nghiệp nặng (Bộ Công Thương) cho biết, tại Tokyo (Nhật Bản) có khoảng 3-4 nhà máy thép, tương tự tại Hàn Quốc cũng như vậy nhưng người dân vẫn đánh bắt cá xung quanh các khu nhà máy và sự cố Formosa Hà Tĩnh vừa qua là sự cố hi hữu xảy ra trong quá trình xây dựng, không phải quá trình vận hành.

“Nhà đầu tư bỏ ra nhiều vốn cho các dự án, không ai để dự án lớn như thế mà vô trách nhiệm với đồng vốn của mình. Bài học của Formosa ở giai đoạn trước và bây giờ chúng ta cũng nói chính là vấn đề hậu kiểm, công tác giám sát của cơ quan quản lý nhà nước”, ông Hoài nhấn mạnh.

Mặc dù đại diện Vụ công nghiệp nặng đã không nói thẳng vấn đề Việt Nam cần thép hay không nhưng theo ông Thành, từ ý kiến trên, ông hiểu rằng, trên thế giới vẫn cần thép, có nơi vẫn sản xuất thép gắn với chữ sạch như Nhật, Hàn Quốc và Việt Nam vẫn cần sản xuất thép.

Bổ sung thêm quan điểm, ông Trương Thanh Hoài cũng cho biết, ông đã nghe chuyên gia đặt câu hỏi vì sao Việt Nam không sản xuất thép chế tạo và cho biết, bối cảnh của Việt Nam khác Nhật Bản, Hàn Quốc, sản xuất do thị trường quyết định, Việt Nam chưa thể sản xuất thép chế tạo trong đó có nguyên nhân nguồn nhân lực chưa đáp ứng điều kiện.

“Tôi cũng thích công nghệ cao nhưng sản xuất gì do thị trường quyết định, cần xác định chúng ta ở đâu và làm gì. Hiện năm nay chúng ta nhập 25 triệu tấn thép, kim ngạch nhập 10 tỷ USD”, ông Hoài dẫn số liệu.

Vị đại diện Bộ Công Thương cũng nhấn mạnh, Formosa là bài học đau đớn nhưng sản xuất thép lò cao rõ ràng phải sát biển không phải để xả thải mà là vấn đề kinh tế với yêu cầu về việc vận chuyển đường biển.

Chia sẻ về vấn đề này, ông Trần Du Lịch, Đại biểu Quốc hội cũng cho biết, câu hỏi này ông đã nghe chục năm nay, thời điểm này ông đã đề nghị Việt Nam nếu không làm thép, không có công nghiệp hoá, nhà nước đã “giành” làm nhưng nhà nước đã thất bại.

Ông cũng cho biết thêm, nếu không có hàng rào kỹ thuật, không chỉ ngành thép, ngành nào tại Việt Nam cũng “chết” vấn đề đặt ra cần tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh.

Đồng quan điểm, ông Hồ Nghĩa Dũng, Chủ tịch Hiệp hội Thép cho biết, Việt Nam lựa chọn con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá để phát triển đất nước là lựa chọn không mới, hàng chục năm nay chúng ta theo đuổi “miệt mài” là con đường đúng và tất yếu phải phát triển công nghiệp vật liệu nền tảng trong đó có thép.

Cạnh tranh với thép Trung Quốc, không riêng Việt Nam

Tại toạ đàm, TS. Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng CIEM đặt câu hỏi: “Đối với phát triển ngành thép, thép Việt Nam có thể cạnh tranh với thép Trung Quốc hay không khi thép Trung Quốc có sản lượng lớn và giá cạnh tranh?”, ông Dũng cho biết, câu chuyện cạnh tranh với thép Trung Quốc không chỉ của Việt Nam mà cả thế giới.

Ông Hồ Nghĩa Dũng, Chủ tịch Hiệp hội thép. Ảnh: Việt Tuấn

“Việc đó chúng ta cần tính toán nhưng thép Trung Quốc xuất khẩu bằng nhiều phương thức, gian lận, trợ giá xuất khẩu đây là mặt gian lận kỹ thuật và thương mại... nếu giải quyết, đấu tranh bằng nhiều hàng rào thương mại và kỹ thuật, phòng vệ thương mại đối với một số sản phẩm phôi thép, thép cán dài chúng ta hoàn toàn cạnh tranh được”.

Bên cạnh đó, ông Dũng cũng cho biết, về hoàn cảnh của Việt Nam giai đoạn hiện nay tiêu thụ bình quân 200 kg thép/người/năm trong khi thế giới là 240 kg/người/năm, Thái Lan 350 kg thép/người/năm cho thấy, Việt Nam đang ở ngưỡng thấp hơn mức trung bình thế giới, ASEAN.

“Thậm chí như Hàn Quốc, có thời kỳ 1.100kg/người/năm để thấy tiêu thụ thép của Việt Nam so với các nước đang quá thấp, việc phát triển, nhu cầu thép là vẫn còn những cơ hội để phát triển mạnh hơn nữa”, ông Dũng nhấn mạnh.

Cũng theo ông Dũng, thép dài và thép dẹt, tiêu thụ và sản xuất còn thấp hơn so với năng lực sản xuất. Cụ thể, đối với thép dài tăng trưởng 10%/năm thì 3 năm nữa mức tiêu thụ so với năng lực sản xuất là bão hoà nên nhà đầu tư nghĩ phát triển thép dài là chính đáng. “Nhà đầu tư suy nghĩ đã làm được tôn mạ thép cán nguội phải tìm cách sản xuất thép cuộn cán nóng là suy nghĩ đúng và cần thiết”, ông Dũng nêu quan điểm.

Ông Dũng cũng đồng tình, trước mắt việc đầu tư phát triển ngành thép là cần thiết và vấn đề nóng nhất là công nghiệp thép tác động tiêu cực đến môi trường là hoàn toàn đúng. “Nhưng tôi cũng muốn nói rằng, vấn đề công nghệ khoa học hoàn toàn kiểm soát được, vấn đề nhà đầu tư đầu tư thế nào, doanh nghiệp quản lý vấn đề đó như nào, giám sát của nhà nước và cộng đồng như thế nào?”, ông nói.