Sắt thép nhập khẩu từ Trung Quốc chiếm gần 60% trong tổng kim ngạch

10 tháng đầu năm 2016 lượng sắt thép nhập khẩu về Việt Nam đạt 15,4 triệu tấn, tổng kim ngạch đạt 6,55 tỷ USD (tăng 22,9% về lượng và tăng 3,5% về trị giá so với cùng kỳ 2015).

24/11/2016 09:15

10 tháng đầu năm 2016 lượng sắt thép nhập khẩu về Việt Nam đạt 15,4 triệu tấn, tổng kim ngạch đạt 6,55 tỷ USD (tăng 22,9% về lượng và tăng 3,5% về trị giá so với cùng kỳ 2015).

Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, lượng nhập khẩu sắt thép các loại trong tháng 10 ước đạt 1,55 triệu tấn có trị giá 727 triệu USD (giảm 3,5% về lượng và giảm 1,1% về trị giá so với tháng trước). Tính chung 10 tháng đầu năm 2016 lượng sắt thép nhập khẩu về Việt Nam đạt 15,4 triệu tấn, tổng kim ngạch đạt 6,55 tỷ USD (tăng 22,9% về lượng và tăng 3,5% về trị giá so với cùng kỳ 2015).

Đáng chú ý, so với năm 2015 có thể thấy lượng sắt thép nhập khẩu có sự gia tăng đột biến. 10 tháng năm 2016 nhập khẩu mặt hàng này xấp xỉ bằng cả năm 2015. Năm 2015 nhập khẩu 15,7 triệu tấn, đã được đưa vào nhóm mặt hàng nhập khẩu chính trong nước. Năm 2014, sắt thép nhập khẩu đạt 11,7 triệu tấn (trị giá 7,7 tỷ USD).

Điều đáng nói, đa phần sắt thép nhập khẩu về Việt Nam là từ Trung Quốc, chiếm 59,15 tỷ trọng về lượng và 55,2% về giá trị.

Các thị trường cung cấp sắt thép các loại chủ yếu cho Việt Nam trong 10 tháng đầu năm 2016 chủ yếu gồm: Trung Quốc với 9,06 triệu tấn, trị giá hơn 3,61 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 59,1% về lượng và 55,2% về trị giá trong tổng lượng và trị giá nhập khẩu sắt thép các loại của cả nước.

Sắt thép có xuất xứ Nhật Bản đạt 2,26 triệu tấn, trị giá 989,6 triệu USD; chiếm tỷ trọng 15,2% về lượng và 15% về trị giá; thị trường Hàn Quốc với 1,52 triệu tấn, trị giá 834,8 triệu USD, chiếm 9,6% về lượng và 12,8% về trị giá.

Theo Bộ Công Thương, quá trình rà soát Quy hoạch cho thấy, đến năm 2020 cả nước sẽ thiếu hụt khoảng 15 triệu tấn thép thô, đến năm 2025, thiếu hụt sẽ vượt mức 20 triệu tấn thép thô, nhập siêu ngành thép sẽ ngày càng trầm trọng hơn.

Trước đây, do các doanh nghiệp trong nước không đủ năng lực tài chính và kỹ thuật nên Việt Nam phải kêu gọi các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư các Khu luyện thép liên hợp. Đến nay, đã có ba dự án Khu luyện thép liên hợp được cấp Giấy chứng nhận nhận đầu tư là dự án Khu liên hợp Cà Ná (Liên doanh giữa tập đoàn Lion và Tập đoàn công nghiệp tàu thủy Việt Nam), dự án Nhà máy thép Guanglian Dung Quất (nhà đầu tư Đài Loan) và dự án của Công ty TNHH Gang Thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh (Gọi tắt là Dự án Formosa). Trong số ba dự án trên chỉ có duy nhất dự án Formosa Hà Tĩnh được triển khai, hai dự án còn lại đã bị thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư do không tiến hành triển khai đúng quy định.

Đến nay, một số doanh nghiệp Việt Nam đã có đủ năng lực, có thể đầu tư các tổ hợp thép có quy mô lớn mà không cần đến các nhà đầu tư nước FDI.

Bộ Công Thương đánh giá, nếu chúng ta không phát triển các dự án Khu liên hợp luyện thép lò cao để sản xuất các loại thép phục vụ ngành cơ khí chế tạo sẽ có một nghịch lý là sở hữu lượng quặng sắt rất lớn và các chất trợ dung, phụ liệu sản xuất nhưng ngành cơ khí chế tạo, công nghiệp quốc phòng và đóng tàu phục vụ kinh tế biển lại phụ thuộc hoàn toàn vào thép nhập khẩu với khối lượng lớn. Điều này gây ra tình trạng nhập siêu lớn cho nền kinh tế, ảnh hưởng lớn tới sự ổn định kinh tế vĩ mô của đất nước.

Các loại thép sản xuất trong nước có nhiều lợi thế cạnh tranh so với thép nhập khẩu trong điều kiện cạnh tranh bình đẳng, không có yếu tố trợ giá. Trong thời gian qua, Bộ Công Thương đã tiến hành các biện pháp tự vệ đối với một số sản phẩm thép nhập khẩu có trợ giá của nước ngoài. Giai đoạn này là thời điểm thích hợp để Việt Nam phát triển ngành công nghiệp thép.

Số liệu thống kê sơ bộ của TCHQ về nhập khẩu sắt thép 10 tháng đầu năm 2016 (ĐVT: USD)

Thị trường

10T/2016

10T/2015

+/- (%) 10T/2016 so với cùng kỳ

Tổng kim ngạch

6.547.335.817

6.275.673.242

+4,33

Trung Quốc

3.613.021.004

3.489.909.021

+3,53

Nhật Bản

989.555.877

1.060.260.372

-6,67

Hàn Quốc

834.822.652

888.670.898

-6,06

Đài Loan

598.229.229

515.525.814

+16,04

Nga

148.516.558

6.185.933

+2300,88

Ấn Độ

87.323.725

60.079.518

+45,35

Thái Lan

71.450.500

42.994.298

+66,19

Malaysia

42.545.475

33.563.736

+26,76

Australia

24.753.434

28.496.223

-13,13

Indonesia

16.261.678

32.315.656

-49,68

Đức

9.129.925

7.536.854

+21,14

Hoa Kỳ

9.051.770

11.666.887

-22,41

Braxin

7.559.429

21.536.549

-64,90

Thuỵ Điển

6.829.417

8.613.894

-20,72

Nam Phi

6.697.740

4.686.970

+42,90

Bỉ

6.165.464

3.834.326

+60,80

Phần Lan

5.541.164

5.202.001

+6,52

Singapore

5.380.645

9.281.492

-42,03

Hồng Kông

5.258.486

3.400.191

+54,65

Italia

4.277.796

7.329.135

-41,63

Pháp

3.014.299

3.135.926

-3,88

NewZealand

2.740.823

1.774.210

+54,48

Ba Lan

2.650.452

1.461.629

+81,34

Hà Lan

2.558.523

3.396.066

-24,66

Tây Ban Nha

1.909.934

3.522.400

-45,78

Áo

1.794.062

6.311.727

-71,58

Mexico

1.358.685

669.227

+103,02

Ả Rập Xê Út

1.152.213

*

Philippines

1.081.370

855.763

+26,36

Anh

1.030.614

1.734.294

-40,57

Thổ Nhĩ Kỳ

717.866

1.203.926

-40,37

Đan Mạch

380.823

118.469

+221,45

Canada

240.746

256.400

-6,11

Ucraina

238.145

329.760

-27,78