VNSTEEL với các giải pháp ứng phó biến đổi khí hậu

Thời gian qua, ngành Thép đã có những bước phát triển nhanh chóng, từng bước đáp ứng được nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Tuy nhiên, ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu do sản xuất thép hiện đang là vấn đề rất được quan tâm. Ngược lại, biến đổi khi hậu và nước biển dâng cũng làm thiệt hại không nhỏ tới sản xuất kinh doanh của ngành Thép. Nhằm hạn chế tác động do biến đổi khí hậu và đề xuất các giải pháp ứng phó phù hợp với BĐKH và NBD, Cục Kỹ thuật An toàn và Môi trường (Bộ Công Thương) đã giao cho Tổng công ty Thép Việt Nam (VNSTEEL) triển khai thực hiện Dự án “Đánh giá tác động và đề xuất các giải pháp ứng phó với BĐKH và NBD của ngành Thép Việt Nam”

22/10/2012 00:00

Thời gian qua, ngành Thép đã có những bước phát triển nhanh chóng, từng bước đáp ứng được nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Tuy nhiên, ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu do sản xuất thép hiện đang là vấn đề rất được quan tâm. Ngược lại, biến đổi khi hậu và nước biển dâng cũng làm thiệt hại không nhỏ tới sản xuất kinh doanh của ngành Thép. Nhằm hạn chế tác động do biến đổi khí hậu và đề xuất các giải pháp ứng phó phù hợp với BĐKH và NBD, Cục Kỹ thuật An toàn và Môi trường (Bộ Công Thương) đã giao cho Tổng công ty Thép Việt Nam (VNSTEEL) triển khai thực hiện Dự án “Đánh giá tác động và đề xuất các giải pháp ứng phó với BĐKH và NBD của ngành Thép Việt Nam”

Như chúng ta đã biết, một trong những tác nhân gây ra sự biến đổi khí hậu (BĐKH) và nước biển dâng (NBD) trong sản xuất thép là do sự phát thải khí nhà kính và sự phát thải bụi cũng như khí thải tại một số công đoạn: thiêu kết quặng sắt, luyện gang, luyện thép bằng lò điện (EAF)... Ngược lại, BĐKH và NBD cũng làm ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất kinh doanh của các đơn vị sản xuất thép.

Các tác động của BĐKH, NBD đã ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp tới mọi hoạt động sản xuất và kinh doanh của các đơn vị như: Tác động thiệt hại về kinh tế (tính riêng năm 2008 - 2010 lên tới hàng trăm tỷ đồng), trong đó: Do ngập úng Nhà máy thép Tây Đô, phải đầu tư sửa mặt bằng bị sụt lún và chống nghiêng ống khói lò nung phôi mất trên 10 tỷ đồng và lượng phôi bị trôi mất gần 50 tấn, thiệt hại gần 0,6 tỷ đồng; Chi phí chống sạt lở bờ mỏ và bóc đất mở vỉa của mỏ Phấn Mễ mỗi năm tăng lên 30 tỷ đồng. Bên cạnh đó, làm tăng giá thành sản xuất gang theo công nghệ lò cao (hạn hán làm thiếu nước tuyển rửa quặng nên đất chay trong quặng lớn; tăng chi phí làm mát thiết bị lò cao...); Tăng giá thành sản xuất thép bằng lò điện và làm phát sinh nhiều khí, bụi thải (tăng chi phí làm mát biến thế lò điện, giảm chất lượng thép phế nạp lò gây ra tiêu hao điện năng nhiều hơn)...

Để ứng phó, hạn chế những ảnh hưởng, thiệt hại do BĐKH và NBD gây ra cho ngành Thép, Dự án nghiên cứu đã đề xuất cần thực hiện đồng bộ 3 nhóm giải pháp:

Nhóm giải pháp về công nghệ nhằm giảm phát thải khí nhà kính trong quá trình sản xuất gang thép ở Việt Nam: Xử lý và nâng cao chất lượng nguyên liệu đầu vào; Thay đổi nhiên liệu và sử dụng năng lượng hiệu quả; Cải tiến và đổi mới công nghệ. Các giải pháp này nhằm lựa chọn công nghệ tiêu hao ít nhiên liệu, năng lượng, phát thải ít, thân thiện với môi trường, nâng cao tuổi thọ thiết bị, rút ngắn chu kỳ luyện. Sử dụng nguyên nhiên liệu sạch và tiết kiệm năng lượng trong sản xuất gang, phôi thép và cán thép; Sử dụng nhiệt dư và khí dư trong quá trình luyện cốc, luyện gang và luyện thép để tái sử dụng cho sản xuất gang thép.

Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả các dự án đầu tư trong ngành Thép phù hợp với BĐKH và NBD: nhằm đổi mới công nghệ và hiện đại hóa thiết bị trong khai thác và chế biến tài nguyên khoáng sản; Đầu tư cải tạo và nâng cấp (công nghệ và thiết bị) những nhà máy có thiết bị cũ và công nghệ lạc hậu nhằm tăng tỷ lệ quặng thiêu kết và vê viên, thay quặng sống nạp vào lò cao, giảm tiêu hao than cốc cho luyện gang; Xử lý thép phế trước khi nạp vào lò điện EAF...; Đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ và thiết bị đạt trình độ tiên tiến với các nước trong khu vực; Lựa chọn phương pháp dập cốc khô thay cho phương pháp dập cốc ướt nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường tại các nhà máy luyện cốc...; Đầu tư các dự án có quy mô công suất lớn, công nghệ và thiết bị hiện đại nhằm đảm bảo hiệu quả cao và BVMT.

Nhóm giải pháp về nhận thức, tổ chức quản lý và nguồn lực về BVMT: Nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước về BVMT cũng như nhận thức về BVMT; Tìm mọi biện pháp để cho cán bộ lãnh đạo nhận thức đầy đủ về vai trò BVMT đối với sự phát triển của ngành Thép; Tổ chức tuyên truyền sâu rộng để mọi người trong ngành Thép hiểu và thực hiện pháp luật về BVMT. Trong đó có việc phổ biến kiến thức và tăng cường nhận thức về BĐKH và NBD; Cần làm cho các doanh nghiệp hiểu rõ quyền lợi và nghĩa vụ, quyền hạn và trách nhiệm về BVMT; Kiện toàn tổ chức quản lý tài nguyên và môi trường; Đào tạo nguồn nhân lực cũng như tăng cường nguồn tài chính và đầu tư nghiên cứu khoa học về BVMT.

Trên thực tế, các doanh nghiệp áp dụng các giải pháp theo nhóm 1 đã giảm được lượng khí bụi thải phát tán ra môi trường trong quá trình sản xuất thép lò điện nhờ việc áp dụng đầu tư mới hệ thống lọc bụi; Giảm được lượng khí nhà kính phát tán ra môi trường trong quá trình sản xuất gang, thép. Các doanh nghiệp sản xuất gang theo công nghệ lò cao hàng năm đã tiết kiệm lượng than cốc rất lớn. Với mức tiêu hao than cốc giảm được 0,01 tấn cốc/tấn gang, mỗi năm Nhà máy luyện gang của Công ty CP Gang thép Thái Nguyên (TISCO) đã tiết kiệm được 2.500 tấn than cốc (tương ứng với số tiền khoảng 3 tỷ đồng). Mức tiết kiệm than cốc tính/tổng sản lượng gang hàng năm của toàn ngành số tiền tiết kiệm được lên đến hàng chục tỷ đồng. Đồng thời, do đầu tư lò điện siêu công suất hiện đại, sử dụng gang lỏng nạp, lò điện... đã giảm được mức tiêu điện khoảng 30 - 50 Kwh/tấn thép lỏng. Về mặt xã hội, do áp dụng các giải pháp nhóm 2 và nhóm 3 nên một số nhà máy không phải di dời đã không ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư và đảm bảo ổn định việc làm cho người lao động. “Hệ thống lọc bụi” của Công ty CP Thép Biên Hòa (VICASA) là một minh chứng khi áp dụng các giải pháp. Nhận thức về công tác BVMT từ lãnh đạo đến CBNV của VNSTEEL ngày càng nâng cao; Tư duy về việc tuân thủ các quy định pháp luật về BVMT ngay từ khi bắt đầu lập dự án đầu tư cho đến khi triển khai hoạt động sản xuất đã thay đổi và nâng cao; Góp phần hoàn thành "Chương trình mục tiêu Quốc gia ứng phó với BĐKH" của Chính phủ và Bộ Công Thương.

Những nghiên cứu trên khẳng định, để ứng phó và thích nghi với với BĐKH và kịch bản NBD, cần phải thực hiện tốt “Chiến lược BVMT của Tổng công ty Thép Việt Nam giai giai đoạn 2010 - 2020”. Tập trung vào một số nội dung trọng tâm, lựa chọn và áp dụng các công nghệ tiên tiến trong tất cả các khâu sản xuất (từ khai thác, tuyển và chế biến tài nguyên khoáng sản cho đến luyện gang, luyện thép, cán thép và sản xuất sản phẩm thép) nhằm đảm bảo tiết kiệm tài nguyên khoáng sản, tiết kiệm năng lượng hiệu quả, chú trọng áp dụng công nghệ sản xuất sạch hơn và BVMT hiệu quả theo pháp luật.

(Tộ Minh)