CBAM và Doanh nghiệp Việt Nam: Thích ứng với nền kinh tế xanh
Một trong những vấn đề mới và được quan tâm nhất hiện nay đối với hàng hóa xuất khẩu vào EU đó chính là Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) - được Liên minh Châu Âu (EU) thí điểm áp dụng giai đoạn chuyển tiếp từ ngày 01/10/2023 và thực hiện đầy đủ từ năm 2026. Vậy Cơ chế CBAM là gì, tác động thế nào đến hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU và cần giải pháp ứng phó, thích ứng ra sao với chính sách mới này của EU?
16/11/2024 06:35
Đây là vấn đề được các chuyên gia, nhà khoa học và các doanh nghiệp thảo luận tại Hội thảo do Viện Nghiên cứu Châu Âu và Tổ chức FNF Việt Nam phối hợp tổ chức tại Hà Nội vào sáng ngày 24/10/2024 với chủ đề “CBAM và Doanh nghiệp Việt Nam: Thích ứng với nền kinh tế xanh”. Trên cơ sở làm rõ các vấn đề liên quan đến CBAM bao gồm: Giới thiệu tổng quan về cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) bao gồm: khái niệm, bối cảnh ra đời CBAM, lộ trình thực hiện, các nguyên tắc cơ bản của CBAM, tác động, vướng mắc trong thực thi CBAM/không CBAM…; xu hướng mở rộng CBAM và các chính sách tương tự; CBAM của EU và những lưu ý với doanh nghiệp; Chiến lược thích ứng của doanh nghiệp đối với CBAM… Hội thảo được coi là một trong những diễn đàn quan trọng có ý nghĩa chiến lược trong việc tổng quan các vấn đề lý luận, hàm ý chính sách để các doanh nghiệp Việt Nam có thể tiếp cận và thích ứng kịp thời trước những đòi hỏi từ các yêu cầu trong cơ chế thực hiện CBAM đối với các sản phẩm được coi là có lượng phát thải khí nhà kính cao muốn được đưa vào thị trường Châu Âu (EU).
Phát biểu khai mạc Hội thảo, PGS.TS. Nguyễn Chiến Thắng, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Châu Âu đã nhiệt liệt chào mừng sự có mặt của đông đảo đại biểu là các nhà khoa học đến từ các đơn vị thuộc và trực thuộc Viện Hàn lâm, đặc biệt là sự có mặt của đại diện các doanh nghiệp đến từ các ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam như: Hiệp hội Xi măng Việt Nam; Hiệp hội Thép Việt Nam cùng sự có mặt của các đại biểu đến từ Bộ Công Thương; Trung tâm WTO, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam; đại diện Bộ Ngoại giao; Bộ Tài Nguyên Môi trường; đại diện một số trường đại học trên địa bàn thủ đô Hà Nội và cho rằng sự có mặt của đông đảo đại biểu có ý nghĩa quan trọng trong việc nhận diện và làm rõ các vấn đề có liên quan đến CBAM, một trong những cơ chế quan trọng do EU đưa ra nhằm bảo vệ môi trường trước sự biến đổi khí hậu đang diễn ra ngày càng nghiêm trọng hiện nay, hướng tới thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế xanh và phát triển bền vững.
Phó giáo sư, Viện trưởng nhận định: ở cơ chế CBAM của Liên minh Châu Âu (EU), với mục tiêu hạn chế lượng khí thải carbon từ các sản phẩm nhập khẩu đã và đang tạo ra những tác động không nhỏ tới các doanh nghiệp xuất khẩu trên toàn cầu, trong đó có quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Cơ chế này không chỉ là thách thức mà còn là các cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh, cải thiện quy trình sản xuất, đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế và môi trường.
Thích ứng với nền kinh tế xanh không chỉ đòi hỏi sự nỗ lực từ phía các doanh nghiệp mà còn đòi hỏi sự hợp tác và hỗ trợ kịp thời của các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức quốc tế và cộng đồng khoa học. Thách thức mà các doanh nghiệp Việt Nam đang đối mặt là rất lớn cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn. Thông qua Hội thảo khoa học, PGS.TS. Nguyễn Chiến Thắng tin rằng, sự hợp lực, sự gắn kết về những sáng kiến đổi mới, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ vượt qua được những vấn đề này để thích ứng kịp thời với nền kinh tế xanh - qua đáp ứng cơ chế CBAM, hướng tới việc nắm bắt và tiếp cận thị trường Châu Âu - một trong những thị trường quan trọng mà các doanh nghiệp Việt Nam hướng tới và không thể bỏ qua.
Phó giáo sư, Viện trưởng bày tỏ mong muốn Hội thảo sẽ tập trung thảo luận, phân tích làm rõ được những tác động nổi bật của CBAM tới Việt Nam đặc biệt là trong lĩnh vực xuất khẩu. Đồng thời, cùng nhau tìm hiểu sâu hơn về các biện pháp, giải pháp mà các doanh nghiệp Việt Nam cần áp dụng nhằm giảm thiểu những tác động tiêu cực từ CBAM, thúc đẩy có hiệu quả vào quá trình chuyển đổi sang mô hình kinh tế xanh – xu hướng tất yếu trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay…
Phát biểu tại Hội thảo, Bà Lê Thị Thu Trang, Quản lý Dự án, FNF Việt Nam cũng nhiệt liệt chào mừng sự có mặt của toàn thể đại biểu và cho biết: Trong những năm đồng hành cùng Viện Nghiên cứu Châu Âu trong hoạt động khoa học, FNF Việt Nam và Viện Nghiên cứu Châu Âu đã triển khai nhiều Dự án quan trọng, trong đó phải kể tới là các nghiên cứu có liên quan đến trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và các tiêu chuẩn bền vững, nhằm hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh, đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế. Hội thảo là sự kiện quan trọng, đánh dấu bước tiến quan trọng trong mối quan hệ hợp tác giữa FNF Việt Nam và Viện Nghiên cứu Châu Âu ở lĩnh vực có tính chất trọng tâm là Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon – CBAM – một chủ đề mang tính thời sự, là công cụ mới của Liên Minh Châu Âu (EU) nhằm đảm bảo các sản phẩm nhập khẩu vào EU phải đáp ứng các tiêu chuẩn về phát thải carbon, từ đó thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế xanh. CBAM là cơ hội đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp có sản phẩm xuất khẩu vào thị trường EU. Việc tổ chức Hội thảo sẽ giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam nhận diện được những vấn đề cần ưu tiên để có những giải pháp thích ứng kịp thời với các tiêu chuẩn quốc tế về môi trường. Qua đó có thể duy trì vị thế cạnh tranh của mình trong việc giảm thiểu những tác động của thuế carbon và tránh được những rào cản thương mại khác trong bối cảnh thế giới đang chuyển đổi mạnh mẽ sang nền kinh tế xanh hiện nay.
Các trao đổi tại Hội thảo đã góp phần làm rõ CBAM là gì và tại sao cần CBAM? Có thể hiểu một cách đơn giản CBAM – Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon, là một công cụ trong gói kế hoạch “fit for 55” (giảm 55% phát thải khí nhà kính vào năm 2030 trong khuôn khổ “Thỏa thuận xanh” của Liên minh Châu Âu (EU). Mục tiêu chính của CBAM EU là ngăn chặn nguy cơ rò rỉ carbon và khuyến khích các doanh nghiệp nước ngoài EU xây dựng và thực hiện các chính sách giảm phát thải khí nhà kính.
Tại Việt Nam có một số sản phẩm xuất khẩu chịu sự điều chỉnh của CBAM EU như: sắt nhôm, thép, nhôm, Hydrogen, xi măng và phân bón... các chuyên gia và nhà khoa học cho rằng: Xét về tổng thể toàn bộ nền kinh tế, tác động của CBAM không lớn, nhưng đối với từng ngàng hàng, từng doanh nghiệp, giá trị xuất khẩu giảm đi là con số không nhỏ, làm gia tăng áp lực với các doanh nghiệp. Số liệu khảo sát cho thấy, lĩnh vực thép có khả năng sẽ giảm khoảng 4% giá trị xuất khẩu. Nhu cầu giảm kéo theo sản lượng giảm khoảng 0,8%, cùng với tác động bất lợi về giảm khả năng cạnh tranh trên thị trường. Giá trị xuất khẩu của ngành nhôm cũng giảm hơn 4% và sản lượng giảm khoảng 0,4%. Đối với ngành xi măng và phân bón, mức độ tác động không đáng kể nhưng không vì thế mà các doanh nghiệp ngành này có thể chủ quan bởi sự mở rộng các yêu cầu trong Cơ chế thực hiện CBAM là một xu hướng tất yếu.
Để ứng phó với quy định này của EU, theo các chuyên gia, Việt Nam nên lựa chọn giải pháp chấp nhận Cơ chế CBAM và tìm cách giảm thiểu tác động tích cực của cơ chế này. Theo đó, về phía Chính phủ và cơ quan quản lý nhà nước, cần có những trao đổi, thỏa thuận với đối tác EU về lộ trình phát triển thị trường carbon trong nước của Việt Nam; Thiết lập và vận hành thị trường carbon trong nước để bù trừ lượng phát thải carbon; sớm ban hành hướng dẫn, doanh nghiệp chuẩn bị ứng phó, tăng cường năng lực kỹ thuật và thể chế để thích ứng với CBAM; tham gia vào các đối thoại mang tính xây dựng với EU và đàm phán với EU để đưa ra các điều kiện có lợi cho Việt Nam; cải thiện khung chính sách về khử carbon như loại bỏ dần điện than, thúc đẩy năng lượng tái tạo, tiết kiệm năng lượng; Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, đặc biệt là yêu cầu về kiểm kê phát thải khí nhà kinh, hệ thống đăng ký, hệ thống báo cáo; Thực hiện các biện pháp giảm phát thải, xây dựng và báo cáo phát thải/giảm thải cấp quốc gia/ngành/lĩnh vực và cơ sở phát thải… Về phía doanh nghiệp có hàng hóa thuộc danh mục chịu sự điều chỉnh của CBAM EU cần phải xác định được nguồn phát thải/kiểm kê/tính toán tổng lượng phát thải; Xây dựng báo cáo đề cập đến lượng phát thải của từng dòng sản phẩm; Xác định, đánh giá giảm thiểu lượng carbon trong từng công đoạn của quy trình sản xuất; Xây dựng kế hoạch sản xuất, trong đó có dòng kinh phí cho việc xây dựng báo cáo phát thải theo yêu cầu của CBAM và trao đổi với nhà nhập khẩu để chuẩn bị các nội dung báo cáo theo yêu cầu.
Đánh giá và chiến lược thích ứng của doanh nghiệp đối với CBAM, Bà Phạm Phương Linh - chuyên gia Dự án Hỗ trợ kỹ thuật về đánh giá tác động của CBAM, Công ty Cổ phần Tư vấn Năng Lượng và Môi trường (VNEEC) cho biết: “Hiện doanh nghiệp Việt mới chỉ có thể cung cấp thông tin phát thải trong quá trình sản xuất, gia công hàng hóa, trong khi CBAM yêu cầu thông tin số liệu phát thải trong cả nguyên liệu đầu vào sản xuất.” Như vậy, việc nhận diện những yêu cầu của CBAM cũng là một trong những vấn đề quan trọng cần các doanh nghiệp thực hiện nhằm triển khai các biện pháp thích ứng kịp thời với các yêu cầu được đặt ra khi muốn thực thi CBAM với các sản phẩm xuất khẩu của mình.
Bà Nguyễn Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập VCCI cho rằng CBAM là một cơ chế chỉ áp dụng cho hàng hóa nhập khẩu chính ngạch vào thị trường EU. Về bản chất, CBAM sẽ đánh thuế carbon đối với tất cả hàng hóa nhập khẩu vào thị trường các nước thuộc Liên minh Châu Âu (EU) dựa trên cường độ phát thải khí nhà kính trong quy trình sản xuất tại nước sở tại.
Về cơ chế cụ thể, nhà nhập khẩu hàng vào EU theo Cơ chế CBAM đăng ký với cơ quan quản lý trong nước và mua chứng chỉ CBAM. Giá của chứng chỉ dựa vào giá tín chỉ phát thải hàng tuần của Hệ thống thương mại khí thải của Liên minh châu Âu (EU ETS). Nhà nhập khẩu trong EU kê khai hàm lượng phát thải trong hàng nhập khẩu và giao nộp số lượng tín chỉ tương ứng của mỗi năm. Nếu nhà nhập khẩu chứng minh được giá carbon đã được thanh toán khi sản xuất hàng nhập khẩu, lượng phát thải tương ứng có thể được khấu trừ.
EU phân loại hàng hóa thành 2 loại để tính suất phát thải thực tế gồm: Hàng hóa đơn giản và hàng hóa phức tạp. Hàng hóa phức tạp sẽ tính toán cả lượng phát thải của nguyên liệu đầu vào. Như vậy, các doanh nghiệp phải nhận thức được rằng, phát thải được tính cho hàng hóa không chỉ đơn giản phát sinh trong quá trình sản xuất, mà còn cả từ nguyên liệu, nghĩa là các doanh nghiệp phải báo cáo chi tiết về hàng hóa đầu vào. Vì vậy, các doanh nghiệp cần có trách nhiệm trong việc phối hợp cung cấp thông tin cho nhà nhập khẩu EU (các thông tin bắt buộc bao gồm: danh tính nhà sản xuất, thông tin chung về quy trình sản xuất, thông tin chung về nguồn phát thải, thông tin cụ thể về sản phẩm, tổng phát thải của toàn bộ cơ sở sản xuất, các thông tin khác) để thực hiện nghĩa vụ hợp tác cung cấp thông tin. Trên cơ sở đó có thể điều chỉnh sản xuất, hướng tới giảm thiểu phát thảo ròng, góp phần thúc đẩy vào việc xây dựng lộ trình xanh hóa sản xuất trong từng bước và giảm thiểu được rủi ro có thể phát sinh từ Cơ chế CBAM.
Về phần mình, các doanh nghiệp cho rằng các báo cáo liên liên quan đến phát thải carbon hiện nay bao gồm rất nhiều thủ tục phức tạp, trở thành một trong những rào cản lớn để các doanh nghiệp có thể tiến hành các thủ tục xuất khẩu. Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý nhà nước chưa có những hướng dẫn chi tiết về việc xác nhận lượng khí thải carbon và gửi dữ liệu cho các đối tượng liên quan đến phát thải CO2… đã khiến họ rất loanh hoay trong việc tìm ra các phương án để có thể giải quyết. Vì vậy Doanh nghiệp rất cần sự chung tay, hỗ trợ của các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức quốc tế và các đơn vị nhập khẩu để các đơn vị có thể có những bước đi phù hợp, thích ứng kịp thời trước những yêu cầu đặt ra từ CBAM, nhất là trong bối cảnh CBAM bước vào giai đoạn vận hành chính thức vào ngày 1/1/2026, thời điểm bắt buộc các doanh nghiệp xuất khẩu phải thực hiện nghĩa vụ khai báo và mua – xuất trình chứng chỉ CBAM khi có sản phẩm hàng hóa đưa vào thị trường EU.
Thời Trân (nguồn: vass.gov.vn)